Giữ lửa nghề truyền thống nơi đất khách

13

www.bienphong.com.vn

Biên phòng – Tha hương nhiều năm, bà con người Mường ở thôn Hòa Bình, xã Đăk Kan, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vẫn đau đáu nỗi nhớ quê nhà, nhớ cái ký ức thời khốn khó năm xưa. Giờ đây, khi cuộc sống đủ đầy, bà con nơi đây dành nhiều quan tâm hơn đến bảo tồn văn hóa dân tộc, trong số đó có các sản phẩm đan lát.

45584616am78781735amba con nguoi muong o thon hoa binh chung
Bà con người Mường ở thôn Hòa Bình chung tay giữ gìn nghề đan lát . Ảnh: Tùng Lâm

Nhìn không gian nhà văn hóa thôn đã trưng bày nhiều sản phẩm của dân tộc Mường nhưng vẫn thiếu những đồ dùng đan lát, bà Đinh Thị Hương (52 tuổi), Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Hòa Bình, xã Đăk Kan tâm sự với chồng mình: “Hay là ông ôn lại nghề đan năm xưa, cùng mọi người trong thôn đan mấy chiếc để trưng bày, quảng bá”. Chiều ý vợ, ông Bùi Văn Niêng (54 tuổi) liền rủ thêm một vài người trong thôn đan “cứng” tay tập trung tại nhà mình để triển khai.

Nghe ông Niêng rủ, bà Sa Thị Đinh (61 tuổi) và ông Đinh Công Chênh (55 tuổi) lại thấy “ngứa nghề”, cùng nhau chẻ lạt, vót nan, mang đồ nghề đến nhà ông Niêng đan, rộn rã cười nói, ôn lại chuyện xưa. Ông Niêng nhớ lại, năm 1993, ông rời tỉnh Hòa Bình vào Kon Tum làm kinh tế mới. Gia đình khó khăn, trải qua nhiều chuyến tàu, chuyến xe cũng đặt chân đến được xã Đăk Kan, huyện Ngọc Hồi.

Ngày ấy, ngoài giấy tờ tùy thân, gia đình ông Niêng còn mang theo chiếc “ớp gùi” (vật dụng đan bằng tre đeo sau lưng) đựng dụng cụ làm nông để vào khai hoang. Với ông Niêng cùng nhiều bà con người Mường ở tỉnh Hòa Bình khi ấy, chiếc “ớp gùi” như vật bất ly thân, gắn liền với những lần lên rừng, vào rẫy. Đến đất khách, đối mặt với bao bộn bề khốn khó, gia đình ông Niêng dựng tạm căn chòi nhỏ ven bìa rừng, chiếc “ốp gùi” cũng được treo gọn gàng nơi góc chòi. Ngoài những kinh nghiệm làm rẫy, ông Niêng còn mang theo vốn liếng là kỹ năng đan lát được học từ cha.

Ông Niêng kể, từ khi còn nhỏ, ông đã quen với hình ảnh người cha ngồi đan nơi góc nhà. Cha ông dạy, là đàn ông Mường thì phải biết đan lát mới lấy được vợ. Vì khi yêu một ai đó, một trong những điều mà người con gái quan tâm là biết đan lát, biết làm những vật dụng trong gia đình để phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Do vậy, khi ở cùng cha, ông Niêng đã chủ động học hỏi, được cha tận tình chỉ dạy nên ông đan rất thành thạo.

Với kỹ năng đan lát điêu luyện, khi đến nơi ở mới, ông Niêng đã đan nhiều vật dụng bằng tre, lồ ô để phục vụ cho gia đình. Cũng chính kỹ năng ấy trở thành “cánh tay trái” mưu sinh khi cưới vợ. Ông Niêng nhớ lại, cưới vợ về, ngoài làm nông, ông Niêng còn đan lát thêm các sản phẩm bằng tre, lồ ô để đựng gạo, thức ăn. Ai đặt gì ông làm nấy, tranh thủ vào giờ nghỉ trưa hay những đêm trăng sáng, những sản phẩm đan lát truyền thống cứ thế ra đời nơi đất khách.

Một trong những sản phẩm mà bà con hay nhờ ông làm ngày ấy là tấm “chiếu cót”, “ớp bang” và “chón”. “Chiếu cót” là những tấm chiếu lớn, được đan bằng nứa, dùng để phơi lúa. Ngày trước, mỗi khi gặt lúa xong, nhiều bà con cùng ông Niêng tạo ra những tấm “chiếu cót” lớn để kịp phơi lúa, bởi lúc bấy giờ, cuộc sống khó khăn nên chưa có sân mặt nền bê tông hay những tấm bạt nhựa lớn. “Chiếu cót” trông giản dị mà bền bỉ, trải qua bao mùa mưa nắng mới rệu rã, mục nát. Còn chiếc “ớp bang” và “chón” là vật dụng không thể thiếu với nông dân Mường. Đến mùa tỉa lúa, những chiếc “chón” cùng người người dân đi tỉa lúa, đựng các vật dụng làm nông nhỏ gọn. Chiếc “ớp bang” được người nông dân đeo chéo bên hông đựng lúa giống, dao, liềm, thi thoảng là con cua, chuột đồng.

Nghe ông Niêng kể chuyện, bà Sa Thị Đinh cũng góp vui. Bà kể lại, khi cùng gia đình vào Kon Tum, ngoài việc cùng bố mẹ mang theo chiếc “ớp gùi”, rương tre, bà còn mang theo chiếc “ớp tét” (vật dụng bằng tre để phụ nữ Mường đựng đồ cá nhân, mỹ phẩm). Chiếc “ớp tét” đấy là do tự tay bà đan để phục vụ cho bản thân, nên đi đâu mà cũng mang nó theo, hệt như phụ nữ ngày nay mang theo túi xách. Bà Đinh kể tiếp, nhiều cặp đôi ngày ấy đến với nhau cũng nhờ chiếc “ớp tét”. Các chị em không biết đan nên khi có chàng trai ngỏ lời yêu, chị em hay yêu cầu các anh đan cho mình chiếc “ớp tét”. Những chàng trai biết đan sẽ ga lăng và đồng ý, còn nếu không biết đan thường sẽ bị các chị em từ chối hoặc ép về học đan trước khi sang gặp phụ huynh nhà gái thưa chuyện.

39284616am75581728am61 tuoi ba sa thi dinh van nhanh nhen th
61 tuổi, bà Sa Thị Đinh vẫn nhanh nhẹn, thoăn thoắt đôi tay khi đan lát. Ảnh: Tùng Lâm

Vào Kon Tum sinh sống, cứ thấy cây tre, cây nứa, bà Đinh lại “ngứa” tay. Những lúc nông nhàn, bà ngồi trước hiên nhà, miệt mài vót nan, khéo léo đan nên những chiếc “ớp tét”, “ớp bang” để phục vụ cho sinh hoạt gia đình. Vừa nói, vừa làm, đôi tay bà Đinh thoăn thoắt đan xong chiếc “ớp tét”. Bà Đinh cho biết, có 2 kiểu đan là “đan lồng” – đan tạo hoa văn và “đan đơn” – đan thường. Chiếc “ớp tét” bà mới đan là “đan đơn” nên rất nhanh, không như chiếc “chón”, chiếc mẹt mà ông Niêng và ông Chênh đang đan.

Nghe nhắc đến mình, ông Đinh Công Chênh cười góp chuyện: Sở trường của tôi là đan mẹt, mẹt lớn, mẹt nhỏ đều đan được hết. Ngày trước, khi còn bé, cha tôi thường hay đan mẹt, đan nong, nia. Tôi cũng được thừa kế kỹ năng từ ông ấy. Khi vào đây, thời gian đầu cuộc sống khó khăn, tranh thủ những lúc rảnh rỗi đan để mà có cái dùng, chứ đâu có tiền mà mua. Giờ đây cuộc sống đủ đầy, tôi đan để dùng, để tặng, trưng bày và hơn hết là dạy cho con cháu học đan.

“Khi nghe ông Niêng rủ đan, tôi đã đồng ý mà không một phút do dự. Bởi nghề đan như một ngọn lửa âm ỉ cháy trong máu, hễ khơi dậy là nó lại bùng cháy, thôi thúc đôi tay thoăn thoắt tạo ra những sản phẩm truyền thống” – Ông Chênh chia sẻ.

Sau gần một buổi miệt mài, chiếc mẹt, chiếc “chón” cùng “ớp tét” đã được những nông dân người Mường hoàn thiện, góp thêm vào những sản phẩm truyền thống mang trưng bày tại nhà văn hóa của thôn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc người Mường trên đất khách.

Bà Đinh Thị Hương cho biết: “Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, UBND xã trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, thời gian tới, thôn sẽ vận động những người trên địa bàn biết đan lát, tích cực tạo ra các sản phẩm bằng tre, lồ ô, nứa để phục vụ đời sống sinh hoạt, sản xuất; đồng thời, trưng bày tại nhà văn hóa thôn, các gian hàng của xã khi huyện tổ chức các lễ hội; truyền dạy cho con cháu để nghề đan không bị mai một”.

Tùng Lâm


Nguồn bài viết:
https://www.bienphong.com.vn/giu-lua-nghe-truyen-thong-noi-dat-khach-post478503.html