Cùng nhịp những mũi tiến công bất ngờ, thần tốc
Trong 12 năm chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên Huế (từ 1964 đến 1976), Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND Phan Văn Lai, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục XDLL Bộ Công an, từng được phân công làm Chánh Văn phòng Ban An ninh tỉnh Thừa Thiên; Chánh Văn phòng Ban An ninh khu Trị Thiên Huế.
Theo Thiếu tướng Phan Văn Lai, đầu năm 1975, sau khi kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy của chiến trường Trị Thiên Huế được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua, mặt trận Trị Thiên Huế khi đó được chia thành 5 khu vực tiến công, gồm: Quảng Trị, Bắc Thừa Thiên, TP Huế và ven đô, đồng bằng phía Nam Huế, khu vực giao thông trên trục đường số 1A từ Đông Truồi đến giáp Đà Nẵng.
Quân giải phóng tiến vào cổng Ngọ Môn Huế. (Ảnh tư liệu)
Từ giữa 2/1975, ông được đồng chí Nguyễn Thành Khiêm (Nguyễn Đình Bảy), Phó trưởng Ban an ninh khu phân công về 2 huyện Phong Điền và Quảng Điền để triển khai kế hoạch công tác an ninh phục vụ chiến dịch và tham gia mũi tiến công phía Nam Huế. Cũng thời điểm đó, lãnh đạo Ban quyết định đưa toàn bộ cơ quan An ninh Khu từ phía Bắc Thừa Thiên vào hướng trọng điểm chiến dịch phía Nam Huế để thống nhất kế hoạch công tác và bố trí lực lượng tham gia chiến dịch.
Tại 2 khu vực trọng điểm ở đồng bằng, Đảng ủy mặt trận phân công đồng chí Nguyễn Trung Chính, Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách An ninh tỉnh làm phó Chính ủy Ban chỉ huy chung cánh Bắc và trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo 3 huyện cánh Bắc Thừa Thiên; đồng chí Nguyễn Mưng, Phó trưởng Ty an ninh tham gia Ban chỉ đạo cánh Nam Thừa Thiên. Toàn bộ lực lượng điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh các huyện và TP Huế được bố trí tham gia các mũi tiến công từng khu vực ở đồng bằng và thành phố… Tại khu vực Quảng Trị, được sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Công an, ngoài lực lượng an ninh tại chỗ, Bộ đã chủ động tập trung huấn luyện hàng nghìn cán bộ Công an miền Bắc; cùng với đó là chuẩn bị nhiều tấn phương tiện, tài liệu phục vụ quản lý vùng giải phóng, đón thời cơ, kịp thời chi viện cho an ninh Trị Thiên Huế, đặc biệt là TP Huế.
Cùng với chiến dịch Tây Nguyên mở màn, sau liên tiếp nhiều đợt tiến công và giành thắng lợi của quân giải phóng, nhất là trên chiến trường tỉnh Quảng Trị, ngày 20/3/1975, Ngô Quang Trưởng – Tư lệnh quân đoàn 1 chính quyền Sài Gòn vội vã bay ra Huế để chủ trì họp bàn “kế hoạch tử thủ Huế”. Không phải chỉ trấn an binh lính, tướng Trưởng còn thề thốt với Tổng thống Thiệu: “Tôi sẽ c h ế t trên đường phố Huế. Việt cộng phải bước qua xác tôi mới vào được cố đô Huế”. Tại Sài Gòn, Thiệu cũng lên sóng phát thanh cam kết sẽ bảo vệ Huế với binh lính bằng giọng điệu: “Bỏ Kon Tum, Pleiku là để bảo toàn lực lượng; còn Đà Nẵng và Huế, quân đoàn III, IV sẽ giữ đến cùng”.
Vẫn theo lời kể của Thiếu tướng Phan Văn Lai, sau khi Quảng Trị được giải phóng hoàn toàn, từ sự chỉ đạo của Bộ Công an, ngày 22/3/1975, Đại đội 201 Trinh sát vũ trang và Đại đội 5 An ninh vũ trang Ty An ninh Quảng Trị phối hợp với Tiểu đoàn Công an vũ trang của Bộ Công an chi viện do đồng chí Vân Hùng chỉ huy phối hợp với bộ đội tiến công, truy kích địch theo hướng bao vây cửa biển Thuận An và vào chiếm lĩnh khu vực phía Bắc TP Huế.
Từ 21/3/1975, chiến dịch đợt II bắt đầu với khí thế thừa thắng xông lên thực hiện mục tiêu chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nẵng, Quân đoàn II của ta tấn công mãnh liệt trên toàn tuyến cánh Nam, đập nát các tuyến phòng ngự của địch, nhanh chóng kiểm soát đường số 1A, hình thành thế chia cắt địch và tổ chức các mũi tiến công xuống cửa biển và đường bộ vào Đà Nẵng, đồng thời thế bao vây gọng kềm áp sát Huế. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, lực lượng An ninh tỉnh, huyện, xã cùng với các lực lượng khác phát động cao trào quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, tiêu diệt các chi khu, phân khu quân sự, các cuộc cảnh sát, các đoàn bình định, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch và truy bắt hằng trăm tên cầm đầu có tội ác…
Ngày 25/3/1975, trong tình thế thất bại không còn đường thoát, 10 vạn quân địch đã đầu hàng. Cuộc rút chạy của địch thật thê thảm. Trên các trục đường chính dẫn về Huế, đông nghẹt xe cộ và đủ thứ lính ngụy trút bỏ quần áo lính, nối đuôi chen lấn, xô đẩy nhau để chạy. Cảnh tượng trên đường rút chạy từ Huế ra cửa biển Thuận An còn hỗn loạn hơn, xe tăng địch nghiến lên đầu bộ binh, nhiều tên bỏ xe giữa đường nhảy xuống chạy bộ. s ú n g ống, xe pháo, áo quần, giày dép vứt đầy trên đường phố.
Trong cơn hoảng loạn và tan rã của địch, ngay đêm 24/3/1975, Đội trinh sát vũ trang TP Huế do đồng chí Trần Phong chỉ huy từ căn cứ lõm huyện Hương Thủy đã đột nhập vào Ty cảnh sát ngụy, trung tâm cảnh sát sắc phục, trung tâm thẩm vấn thu nhiều tài liệu địch chuyển đến vùng an toàn xã Thủy Xuân, đồng thời tổ chức cho cơ sở và quần chúng bảo vệ một số mục tiêu (nhà máy điện, máy nước, kho gạo…) không để địch phá hoại.
Từ căn cứ A Lưới, bám sát mũi tiến công phía Tây Nam Huế, ngày 25/3/1975, đội hình an ninh Khu và an ninh tỉnh đã vào Huế, kịp thời chỉ đạo chiếm lĩnh Ty cảnh sát ngụy, nhà lao thừa phủ, trung tâm thẩm vấn, Ty chiêu hồi, trung tâm sắc tộc, phòng văn khố của tòa tỉnh trưởng và trụ sở ngụy quyền Bắc trung nguyên trung phần. Đặc biệt, tại các khu nhà ở, nơi làm việc và trung tâm thẩm vấn của CIA, ta thu được nhiều tài liệu rất quan trọng phục vụ công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Cùng với lực lượng an ninh tại chỗ, Bộ Công an kịp thời chi viện hơn 500 cán bộ, chiên sĩ An ninh, Cảnh sát, Công an vũ trang do đồng chí Lê Đình Thảo, Giám đốc Công an TP Hà Nội làm trưởng đoàn giúp Ty An ninh Thừa Thiên Huế bảo vệ các cơ quan đầu não, lễ mít tinh toàn thắng, các mục tiêu trọng yếu, như: Đài phát thanh, đài truyền hình, nhà máy nước, máy điện và triển khai 5 thông cáo quản lý vùng giải phóng, góp phần nhanh chóng ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội sau giải phóng.
Sáng 26/3/1975, lá cờ giải phóng được kéo lên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu, đánh dấu mốc lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng. Thiếu tướng Phan Văn Lai kể, ngày hôm đó, bản tin chiến sự cuối cùng về số phận quân đội Sài Gòn ở Huế được hãng UPI tường thuật: “Hôm nay 26/3/1975, các lực lượng Việt Nam (quân đội Sài Gòn) đã thực sự trao thành phố cố đô Huế cho những người cộng sản”.
Anh hùng LLVTND Nguyễn Thị Lài trò chuyện với Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát trong lễ tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ảnh tư liệu.
Gan dạ, kiên trung góp vào chiến thắng lẫy lừng
Những ngày này, căn nhà nhỏ nằm cuối đường Dương Văn An (phường Xuân Phú, quận Thuận Hóa, TP Huế) của Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Lài – nữ biệt động thành, đón nhiều đồng đội là những cán bộ chiến sĩ an ninh từng tham gia kháng chiến ở chiến trường Trị – Thiên Huế về thăm. Là cơ sở cách mạng nên bà Lài cải trang đi giúp việc nhà từ năm 14 tuổi theo yêu cầu của tổ chức. Ngày bà cố gắng làm hết công việc, đêm đến đi bán bánh mì dạo, thực chất là đi rải truyền đơn và dán cờ cách mạng. Không lâu sau đó, cấp trên đặc phái bà về lực lượng trinh sát vũ trang thuộc Ban An ninh TP Huế. Với các nhiệm vụ phá sự kìm kẹp của địch, diệt bọn ác ôn, từ năm 1970, bà Lài cùng đồng đội tổ chức rất nhiều trận đánh “xuất quỷ nhập thần” khiến địch không thể trở tay.
“Tháng 2/1971, sau thất bại ở chiến dịch đường 9 Nam Lào, Mỹ ngụy tổ chức nhiều chiêu trò để trấn an tinh thần sĩ quan và binh lính. Tại Huế, chúng tổ chức chiếu phim, triển lãm tuyên truyền chiến thắng giả tạo ở rạp chiếu bóng Tân Tân nằm trên đường Trần Hưng Đạo. Để lọt được vào rạp, tôi nghĩ ra cách mặc áo dài trắng, tay xách giỏ hoa đóng giả bạn gái một thiếu úy quân đội VNCH đi vào rạp. Khi quả mìn bà Lài hẹn giờ ở rạp trước đó phát nổ thì nhiều tên địch bị tiêu diệt…”, nữ biệt động – Thượng úy Nguyễn Thị Lài bồi hồi nhớ lại trận đánh “cảm tử” ngày ấy.
Sau trận đánh đó, bà Lài cùng lực lượng an ninh tiếp tục tổ chức nhiều trận đánh khác cho đến ngày bị địch bắt. Với mục đích tìm ra cơ sở cách mạng và người đứng đầu nên trong thời gian bị giam cầm ở xà lim Lê Quý Đôn, bà Lài bị địch tra tấn bằng roi điện, kẻ địch còn bắt rắn cho bò vào ống quần, cạp quần bà. Thấy bà không hé môi nói nửa lời, địch tiếp tục lấy dao rạch tay lộ gân trắng rồi đào hố đem bà chôn sống, rồi lại nắm tóc bà quấn lên chiếc quạt trần treo trên tường bật số cho quạt quay… nhưng Nguyễn Thị Lài vẫn một lòng kiên trung với cách mạng.
Sau ngày giải phóng, tháng 6/1976, Nguyễn Thị Lài vinh dự được bầu làm Chủ tịch đoàn Đại hội tuyên dương Anh hùng các lực lượng An ninh miền Nam và được trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
Là một trong những người từng trực tiếp chiến đấu ở chiến trường Thừa Thiên Huế đầy khốc liệt, Đại tá Trần Xuân Châu, cán bộ Công an hưu trí đang sinh sống tại phường Hồng Sơn, TP Vinh (Nghệ An) cho biết 50 năm trước, ông mới 23 tuổi, mang hàm Trung sĩ, mới cưới vợ được 6 tháng. “Khi Bộ Công an có chủ trương tăng cường chi viện cho An ninh miền Nam, lúc đó tôi ở Ty Công an Nghệ An. Vì muốn góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tôi đã tình nguyện lên đường”, Đại tá Trần Xuân Châu nhớ lại.
Sau 2 tháng vượt hàng trăm khe suối nơi rừng sâu núi thẳm, từ giữa năm 1972, ông Châu cùng đồng đội đặt chân đến hậu cứ an ninh A Lưới của chiến trường Thừa Thiên Huế. “Theo chỉ đạo của trên, khi đó chúng tôi có nhiệm vụ xây dựng hậu cứ, nắm tình hình hoạt động của địch, đồng thời gây dựng mạng lưới bí mật hoạt động trong lòng dân. Sau đó, tôi được phân công về vùng Phong Điền, bảo vệ vùng đất của cách mạng”, Đại tá Trần Xuân Châu bồi hồi kể thêm.