Ngay trong lòng phố núi Kon Tum, nơi người ta đã quá quen thuộc với những mái nhà rông cong vút vẫn tồn tại những ngôi đình làng với bề dầy lịch sử hàng trăm năm tuổi…
Những ngôi đình làng thường gắn liền với làng quê miền xuôi với hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình. Thế nhưng, điều khiến người ta bất ngờ là ngay trong lòng phố núi Kon Tum, nơi người ta đã quá quen thuộc với những mái nhà rông cong vút vẫn tồn tại những ngôi đình làng hàng trăm năm tuổi. Nơi đó, như là chứng tích của lịch sử, là cái neo tâm linh để gắn kết những con người xa quê xích lại gần nhau. Lần theo những bức tường của ngôi đình cổ, ta thấy như dấu trăm năm lan tỏa trong lòng bàn tay.
Những đình làng cổ ở Kon Tum
Theo chân những cuộc di cư của người miền xuôi, những làng quê dần được hình thành trong lòng Làng Hồ Kon Tum. Giữa những nếp nhà ba gian mái ngói, những mái đình làng được dựng lên như một hình ảnh quen thuộc về làng quê, xóm cũ cổ xưa. Theo dấu thời gian, mái đình Trung Lương, Võ Lâm, Lương Khế trở thành điều giản dị, gắn bó cuộc sống của biết bao người dân Kon Tum.
Theo phong tục của những người miền xuôi, đình làng vốn là nơi thờ Thành Hoàng làng, hoặc việc thờ cúng các vị thần theo sắc phong của nhà vua. Đình làng còn là ngôi nhà lớn của cộng đồng, là nơi hội họp, tế lễ của làng. Là nơi mà mỗi độ xuân về những người con xa xứ lại quây quần với nhai dưới sân đình để thắp lên đó nén hương với những nguyện cầu về một năm mới bình an.
Ngôi đình đầu tiên phải kể đến đình Trung Lương (nằm trên đường Nguyễn Thái Học, phường Quyết Thắng, TP Kon Tum) có bề dày lịch sử 140 năm. Sự xuất hiện của ngôi đình này gắn liền với ngôi làng cổ Trung Lương. Theo lời kể của ông Quách Vĩnh Kinh (90 tuổi) – Trưởng ban trị sự đình Trung Lương: Năm 1879 những người dân đầu tiên ở miền quê Bình Định lên Kon Tum lập nghiệp, để có nơi sinh hoạt chung, họ xây bắt đầu xây dựng ngôi đình này. Những ngày đầu, đình được dựng bằng tranh tre, nứa lá để thờ thành hoàng Bổn Cẩn.
Lâu dần, cuộc sống người dân khấm khá, với sự đóng góp của bà con, đình được xây dựng lại vào năm 1917 bằng gạch, ngói khang trang. Những bờ tường rất dầy sẫm màu gạch cổ, những hoa văn chạm trổ trên cửa, những hốc tường ấm áp…ta thấy như thời gian đang ngừng lại, nghe như mùa xuân đang tới. Thật gần!
Xuất hiện muộn hơn một chút, Đình Lương Khế (nằm trên đường Trần Phú, phường Thống Nhất, TP Kon Tum) đến nay cũng có niên đại trên 100 năm tuổi.
Theo lời kể của các vị cao niên ở làng Lương Khế và một số bài viết, tài liệu lưu giữ tại đình hiện nay thì cư dân đầu tiên của làng có mặt ở Kon Tum là vào giữa năm 1894 (tức năm Giáp Ngọ niên chế). Những cư dân đầu tiên của làng Lương Khế từ Phủ Bình Khê và Phù Mỹ (tỉnh Bình Định), theo đường 19 vượt đèo An Khê, đèo Mang Giang (thuộc tỉnh Gia Lai) đến dừng chân bên dòng sông Đăk Bla (Kon Tum) để khai khẩn, lập làng mới, gọi làng Lương Khế.
Gắn liền với làng là ngôi đình, ban đầu chỉ được xây dựng như một ngôi miếu nhỏ, thể theo nguyện vọng của lớp cư dân đầu tiên, vào năm 1913, dân làng đã góp sức xây dựng nên đình Lương Khế để thờ cúng Thần hoàng bản xứ, thờ vua Hùng Vương và thờ các bậc tiền hiền thủy tổ.
Được xây dựng khá lâu sau đình Trung Lương và đình Lương Khế, nhưng đình Võ Lâm (đường Mạc Đỉnh Chi, phường Quyết Thắng, TP Kon Tum) vẫn giữ nét kiến trúc hình chữ “Đinh” với các nhà tiền đường, chánh điện, nhà thời tiền hiền và nhà nhóm. Theo sách “Kon Tum – di tích và danh thắng”, đình Võ Lâm được xây dựng năm 1935 với diện tích 1000m2.
Đây là nơi sinh hoạt cộng đồng, thờ tự âm linh cô bác, tổ thần thổ địa, về sau làm nơi thờ tự những vị tiền hiền khai canh và nay nó là nơi thờ Thành hoàng làng Võ Lâm là Quản đạo Võ Chuẩn. Và cái tên Võ Lâm cũng bắt nguồn từ họ Võ của vị quản đạo, để nhớ ơn người đã có công mở rộng vùng đất, chữ “Lâm” có nghĩa là rừng, mô tả về Kon Tum những ngày mới thành lập được vây quanh bởi rừng.
Giữ gìn bản sắc văn hóa Đình làng
Sự hiện hữu của những ngôi đình với những giá trị lịch sử – văn hóa có ý nghĩa rất lớn trong tiến trình lịch sử xây dựng vùng đất Kon Tum. Nó góp phần đánh dấu sự giao thoa, hội nhập văn hóa của người Kinh trong nền văn hóa đa dạng của cộng đồng các dân tộc Kon Tum. Với những giá trị này, UBND tỉnh Kon Tum đã lần lượt công nhận đình Trung Lương, đình Võ Lâm và đình Lương Khế là di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh.
Một buổi trưa của những ngày cuối năm, nắng vàng ươm chạy nhảy trên khắp những bức tường gạch cổ. Ký ức lôi tôi về những năm tháng của hàng trăm năm trước. Là hình ảnh những người nông dân xa quê lên đây lập nghiệp. Họ đã cùng nhau xây dựng những ngôi đình. Và rồi, những giá trị văn hóa đó vẫn được truyền từ đời này qua đời khác, kéo dài hàng trăm năm nay.
Đó là những buổi lễ tế cuối năm, trong khói hương nghi ngút. Những người con xa xứ, những người trong làng bỏ hết cả những bộn bề để ngồi lại với nhau ôn lại những việc làm trong năm, những ký ức về nơi chôn nhau cắt rốn.
Là lễ “tế xuân”, một lễ hội lớn nhất trong năm, lần lượt được tổ chức tại các đình làng.Việc tổ chức lễ tế xuân tại các đình làng ở Kon Tum được mở đầu tại đình Trung Lương từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 2 âm lịch, đình Võ Lâm từ ngày 11 đến 12 tháng 2 âm lịch và kết thúc bằng lễ tết tại đình Lương Khế vào ngày 14 – 15 tháng 2 âm lịch hàng năm. Người xưa chọn những ngày này để tết xuân bởi theo lịch nông vụ, đây là thời điểm đã thu hoạch xong lúa vụ Đông –Xuân, chưa vào vụ mùa mới, người dân rãnh rỗi, nông nhàn. Tuy khác nhau về ngày tế lễ, nhưng nghi thức cúng tế trong các đình làng của Kon Tum cơ bản giống nhau.
Một buổi lễ tế thần được tổ chức tại làng Võ Lâm (Kon Tum).
Lễ tế xuân thường được thực hiện từ 22h ngày hôm trước đến 1h sáng ngày hôm sau, gồm: lễ tế tế thần, tế cô hồn và lễ tế tiền hiền… Việc chuẩn bị lễ tế tại các đình làng được chuẩn bị từ nhiều ngày trước. Toàn bộ đình làng và khuôn viên được dọn dẹp và treo cờ hội. Vật phẩm hiến tế trong lễ cúng đình ngoài hương, đăng, trà, quả, rượu còn có bò hoặc heo và vật hiến tế ấy phải đảm bảo yêu cầu toàn sắc, toàn sinh.
Bước vào lễ tế, trong nghi lễ trang nghiêm, khói hương trầm mặc vị chủ tuy nghi đĩnh đạc trong lễ phục áo dài, khăn đóng, thay mặt dân làng làm lễ. Lễ đầu tiên thường là lễ nghênh thần, mang ý nghĩa đưa vị thần bảo hộ đến thăm thôn, làng, chứng kiến đời sống sinh hoạt của toàn dân trong làng. Sau đó là lễ tế thần. Chịu trách nhiệm chính của buổi lễ cúng là người chủ tế, có sự giúp sức của bồi tế.
Toàn bộ nghi thức hành lễ đều theo lệnh của hai người chủ xướng đứng hai bên hương án kế cận vị chủ tế. Bắt đầu vào lễ, người chủ tế đến dâng lễ trước bàn thờ. Rồi lần lượt, ban quản trị thay nhau vào lễ. Sau khi đánh 3 hồi trống gỗ và 3 hồi chiêng mõ, nhạc lễ nổi lên, lễ dâng hương, chước tửu, tiệm trà bắt đầu. Hương và rượu đã được dâng, ban lễ tế cùng quỳ xuống để đọc văn tế trong âm hưởng trầm, bổng của nhạc lễ. Sau lễ tế thần là lễ cúng tiền hiền, lễ cúng cô hồn… Các nghi thức có phần đơn giản hơn nhưng cũng hết sức long trọng.
Sau phần lễ là phần hội, theo dấu ấn của thời gian, việc mời đoàn hát về chung vui với hội làng đã được lược bỏ, thay vào đấy, phần hội là phần những người dân sống quanh đình, những người con xa quê có dịp quây quần, tề tựu bên sân đình, cùng ăn uống, cùng chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống.
Ngay sau khi lễ tế xuân tại Đình Trung Lương kết thúc, đình Võ Lâm bắt đầu lễ tế của mình. Theo vị chủ tế, việc luân phiên thực hiện lễ tế xuân đã được quy định từ những ngày lập Đình, đây là việc làm mang ý nghĩa nhân văn, nhằm để người dân các làng có thể tham dự lễ tế của nhau.
Ông Quách Vĩnh Kinh, Trưởng ban trị sự đình Trung Lương chia sẽ: Lễ tế xuân này nó có từ khi có đình Trung Lương, hằng năm, sau tết có các lễ hội để cúng cầu an cho nhân dân. Ở đây cũng vậy, ngày xưa sau lễ này có lễ cúng thần nông nữa, cúng để khai nông đi làm, cầu quốc thái, dân an. Cái này cũng như thông lệ hàng năm, đến ngày này là cúng tế. Cho nên bây giờ cho đến sau này phải làm theo thông lệ đó. Đó là một vấn đề tâm linh, con người sống phải có cội nguồn, phải có gốc, phải noi theo phong tục ông cha để lại. Dù sang trọng đến đâu nhưng lễ nghĩa phải giữ.
Ông Nguyễn Thái Sơn, Trưởng ban quản lý Đình Võ Lâm cho biết thêm: “Mục đích lễ tế xuân cũng không có gì hơn là cầu an trong bổn làng được bình an vô sự, không xảy ra chuyện gì. Trước tiên là tế cô hồn, gọi là tế âm, mục đích là tế những người không có nơi nương tựa, các vị vì nước vì nhà đã hi sinh như bộ đội thời chiến tranh; Tới 12h hơn là tế thần, là tế thần linh, đình nào cũng tế thần, để nhớ công lao tiền hiền, tiền bối để tưởng nhớ các vị, để lớp trẻ tiếp nhận. Cứ như vậy năm này qua năm nọ”.
Bên cạnh những mái nhà rông cao vút, những lễ hội của những dân tộc bản địa Bahnar, Xê Đăng, Jẻ Triêng, sự tồn tại của những ngôi đình, việc duy trì lễ cúng đình, tế xuân của người dân phố núi Kon Tum có ý nghĩa đặc biệt, nó vừa giáo dục về truyền thống, lịch sử, lại vừa củng cố mối dây liên lạc thiêng liêng giữa tất cả các thành viên trong cộng đồng.
Uyên Thu
https://www.phapluatplus.vn/van-hoa-giai-tri/dau-xua-dinh-co-giua-long-pho-nui-kon-tum-d170450.html